Theo TS.BS Đỗ Thị Phương Hà, Viện Dinh dưỡng quốc gia, dinh dưỡng đóng vai trò là yếu tố quyết định chính đối với các bệnh không lây nhiễm (các bệnh như ung thư, bệnh tim mạch và đái tháo đường…).
Các bằng chứng khoa học đã chứng minh rằng sự thay đổi trong chế độ ăn tạo ra những tác động mạnh mẽ, cả tích cực lẫn tiêu cực tới sức khỏe suốt cả cuộc đời của mỗi người. Sự điều chỉnh chế độ ăn có thể không chỉ ảnh hưởng tới sức khỏe hiện tại mà còn có thể làm tăng hoặc giảm nguy cơ mắc các bệnh không lây nhiễm trong các giai đoạn tiếp theo của cuộc đời.
Nhu cầu chất dinh dưỡng trong mỗi giai đoạn của chu kỳ sống có thể được đáp ứng thông qua nhiều loại thực phẩm và các thực hành tiêu thụ thực phẩm của mỗi cá thể. Không có một chế độ ăn uống tốt nhất cho tất cả mọi người, cũng như không có thực phẩm nào hoàn toàn là “tốt” hay hoàn toàn là “xấu”.
Dinh dưỡng hợp lý giúp sức khỏe tốt hơn và hạn chế mắc bệnh không lây nhiễm
Dinh dưỡng hợp lý theo suốt vòng đời của một người sẽ giúp tạo ra một thế hệ mới có tình trạng dinh dưỡng tốt hơn, tầm vóc, trí tuệ, sức khỏe tốt hơn và hạn chế mắc bệnh không lây nhiễm cho thế hệ sau. Những trẻ gái tăng trưởng kém thường trở thành những người phụ nữ còi cọc và có nhiều khả năng đẻ ra những đứa trẻ có cân nặng khi sinh thấp, và rồi những đứa trẻ này lại có thể tiếp tục chu kỳ này bằng cách trở thành những người trưởng thành còi cọc, và cứ tiếp diễn như vậy.
Theo TS.BS Đỗ Thị Phương Hà, kích thước khi sinh của người mẹ là yếu tố dự báo có ý nghĩa đối với kích thước của đứa trẻ. Có bằng chứng rõ ràng về yếu tố liên thế hệ trong béo phì, như tình trạng béo phì của bố mẹ, đái tháo đường khi mang thai của người mẹ và cân nặng khi sinh của người mẹ. Cân nặng khi sinh của người mẹ thấp có liên quan tới mức huyết áp cao hơn ở con cái.
Giai đoạn phát triển bào thai: Bào thai chậm tăng trưởng có liên quan với tăng nguy cơ bệnh mạch vành tim, đột quỵ, đái tháo đường và tăng huyết áp. Việc chậm tăng trưởng bào thai có thể dẫn tới sự tăng trưởng bù rất nhanh sau khi sinh và đây cũng có thể là yếu tố quan trọng trong cơ chế bệnh sinh cơ bản của thừa cân, béo phì và các bệnh liên quan đến chuyển hóa, bệnh không lây nhiễm. Cân nặng khi sinh cao (>4000gram) liên quan tới tăng nguy cơ đái tháo đường, bệnh tim mạch, ung thư vú và một số loại ung thư khác.
Giai đoạn sơ sinh dưới 1 tuổi: Chậm tăng trưởng trong giai đoạn sơ sinh dưới 1 tuổi có thể được phản ánh bằng việc không tăng cân và không tăng chiều cao. Cả chậm tăng trưởng và tăng chiều cao hoặc cân nặng quá mức đều có thể là các yếu tố nguy cơ mắc các bệnh không lây nhiễm sau này. Chậm tăng trưởng bào thai và tăng cân cao hơn trong giai đoạn dưới 1 tuổi được phát hiện là có mối liên quan đối với tăng huyết áp sau này. Vóc dáng thấp cũng có liên quan tới tăng nguy cơ bệnh mạch vành tim và đột quỵ, và ở mức độ nào đó cũng liên quan tới đái tháo đường. Ở những đứa trẻ có chiều dài thấp trong bụng mẹ nhưng khi ra đời lại có mức tăng trưởng bù rất nhanh về chiều cao thì khi trưởng thành có nguy cơ cao về đột quỵ và tử vong do ung thư vú, tử cung và đại tràng.
Nuôi con bằng sữa mẹ: Có nhiều bằng chứng cho thấy ở cả trẻ đẻ đủ tháng và thiếu tháng, trẻ được nuôi bằng sữa mẹ có liên quan một cách có ý nghĩa với mức huyết áp thấp hơn trong giai đoạn thơ ấu. Việc cho ăn sữa ngoài thay cho sữa mẹ trong giai đoạn dưới 1 tuổi làm tăng huyết áp tâm trương và huyết áp tâm thu trung bình trong giai đoạn sau của cuộc đời, tăng tỷ lệ tử vong ở tuổi trưởng thành. Nguy cơ đối với một số bệnh mạn tính của thời kỳ thơ ấu (ung thư ở trẻ em, bệnh viêm ruột…) và bệnh mạn tính khi trưởng thành (đái tháo đường tuýp 1, tim mạch…) cũng có liên quan tới nuôi dưỡng trẻ nhỏ bằng các sản phẩm thay thế sữa mẹ.
Giai đoạn thơ ấu và vị thành niên: Vóc dáng thấp có liên quan tới tăng nguy cơ bệnh mạch vành tim, đột quỵ và ở một mức độ nào đó tới đái tháo đường. Chậm tăng trưởng thời thơ ấu có liên quan tới tăng nguy cơ mắc bệnh mạch vành khi trưởng thành. Nghiên cứu ở trẻ 11-12 tuổi tại Jamaica cho thấy ở trẻ chậm tăng trưởng bào thai và tăng cân nhiều trong giai đoạn từ 7 đến 11 tuổi thì có mức huyết áp cao khi trưởng thành. Nghiên cứu ở trẻ em Ấn Độ có cân nặng khi sinh thấp có liên quan đến tăng mô mỡ trung tâm và do đó tăng nguy cơ tăng huyết áp và bệnh tật. Huyết áp cao hơn ở thời thơ ấu (cùng với các yếu tố nguy cơ khác) gây nên những thay đổi giải phẫu và các cơ quan đích trong cơ thể, có liên quan tới nguy cơ bệnh tim mạch, bao gồm giảm tính đàn hồi thành động mạch, tăng kích thước và khối lượng tâm thất, tăng động lực mạch máu khi tim co bóp và tăng sức cản ngoại vi.
Khẩu phần năng lượng ở thời thơ ấu cũng có liên quan thuận chiều với tỷ lệ tử vong do ung thư, mạch vành tim, đột quỵ và bệnh hô hấp ở người trưởng thành. Tăng huyết áp, giảm dung nạp glucose và rối loạn lipid trong máu có liên quan tới trẻ em và trẻ vị thành niên với lối sống không lành mạnh, như các chế độ ăn có quá nhiều chất béo (đặc biệt là chất béo no), cholesterol và muối, khẩu phần ăn không đủ chất xơ và kali, thiếu tập thể dục, và tăng xem vô tuyến. Ít hoạt động thể lực. Cơ quan Nghiên cứu về Ung thư quốc tế đã khẳng định rằng có bằng chứng rõ ràng về mối liên hệ giữa sự xuất hiện của béo phì (cả sớm và muộn) và nguy cơ ung thư. Bên cạnh đó, các nhà khoa học cũng chỉ ra mối liên quan giữa người trẻ có cân nặng quá mức (béo phì) và mức tăng cân cao với ung thư vú, đại tràng, trực tràng và tiền liệt tuyến.
Giai đoạn trưởng thành: Đây là giai đoạn các bệnh không lây nhiễm và yếu tố sinh học của bệnh không lây nhiễm (tăng huyết áp, rối loạn đường huyết, rối loạn mỡ máu…) bắt đầu được thể hiện. Các dấu hiệu, triệu chứng của các bệnh không lây nhiễm xuất hiện sớm hay muộn, mức độ nặng hay nhẹ, kèm biến chứng hay không sẽ phụ thuộc vào từng cá thể, phụ thuộc vào mức độ, tần xuất của yếu tố nguy cơ. Các yếu tố nguy cơ chính trong giai đoạn này là dinh dưỡng không hợp lý, sử dụng thuốc lá, lạm dụng rượu bia, ít hoạt động thể lực, stress. Bên cạnh đó, những người có chỉ số vòng eo cao, béo phì, tăng huyết áp, rối loạn glucose máu, tăng cholesterol, tăng triglyceride, tăng acid uric máu, hội chứng rối loạn chuyển hóa…sẽ nhanh chóng dẫn đến các bệnh không lây nhiễm như đái tháo đường, bệnh mạch vành, đột qụy, ung thư.
Giai đoạn trưởng thành được coi là thời gian mang tính quyết định đối với việc giảm các yếu tố nguy cơ mang tính dự phòng, và tăng hiệu quả điều trị nếu như đã mắc.
Lão hóa và người cao tuổi: Người cao tuổi là những người từ 60 tuổi trở lên. Hầu hết bệnh không lây nhiễm sẽ xuất hiện ở giai đoạn này– đây là kết quả của sự tương tác giữa các quá trình tiến triển đa bệnh cũng như sự suy giảm chức năng sinh lý theo tuổi nói chung. Gánh nặng chính của bệnh không lây nhiễm được quan sát thấy ở giai đoạn này là ảnh hưởng chất lượng sống, tuổi thọ của người cao tuổi, tài chính bản thân và kinh tế gia đình, gánh nặng đối với bảo hiểm y tế và các chi trả của xã hội và chính phủ.
Trước đây, các nhà khoa học cho rằng các yếu tố nguy cơ không tăng lên một cách có ý nghĩa sau một độ tuổi nhất định và không có lợi ích gì trong việc thay đổi các thói quen, như thói quen ăn uống sau 80 tuổi. Tuy nhiên nhiều nghiên cứu gần đây cho thấy việc thay đổi chế độ ăn có tác động lên tất cả các lứa tuổi bao gồm cả tuổi già. Nghiên cứu cho thấy phụ nữ cao tuổi ăn 5-10 đơn vị rau quả một ngày có nguy cơ bị xơ vữa động mạch ít hơn khoảng 30% so với phụ nữ chỉ ăn 2-5 đơn vị rau quả một ngày. Các bệnh nhân cao tuổi thường có nguy cơ mắc các bệnh tim mạch cao hơn, nhưng nếu thay đổi các yếu tố nguy cơ thì họ có thể đạt được nhiều lợi ích hơn, kể cả giảm mắc các bệnh tim mạch và tuổi thọ tăng cao hơn.Bởi vậy người cao tuổi được khuyến khích ăn một chế độ ăn lành mạnh, hợp lý – càng nhiều và đa dạng càng tốt trong khi vẫn duy trì cân nặng - và đặc biệt là tăng cường vận động, tập thể dục, chơi thể thao.
Đối với các bệnh không lây nhiễm, nguy cơ xảy ra ở mọi lứa tuổi; ngược lại, mỗi lứa tuổi là một phần liên tục của các cơ hội để phòng và chống các bệnh không lây nhiễm. Dinh dưỡng không hợp lý, cả thiếu và thừa dinh dưỡng, đều tác động tiêu cực tới sự phát triển bệnh, và nếu sự phối hợp cả hai yếu tố (ví dụ: người bị béo phì nhưng thiếu vi chất) sẽ gây ra hậu quả nghiêm trọng hơn. Do vậy, việc đảm bảo chế độ dinh dưỡng lành mạnh, hợp lý và an toàn trong suốt chu kỳ vòng đời, từ khi chuẩn bị mang thai, tới giai đoạn phát triển bào thai trong tử cung đến các giai đoạn tiếp theo của cuộc đời là quan trọng để dự phòng mắc các bệnh không lây nhiễm.