*Bộ Y tế đề xuất cho phép nhà thuốc được kê đơn thuốc Molnupiravir điều trị COVID-19
Bộ Y tế vừa đề xuất Ban Chỉ đạo Quốc gia điều chỉnh quy định cho phép người phụ trách chuyên môn về dược tại nhà thuốc, quầy thuốc được kê đơn cho bệnh nhân hoặc người mua thuốc Molnupiravir điều trị COVID-19.
Theo Bộ Y tế, việc hiện có quy định chặt chẽ là do Molnupiravir là thuốc mới, cần tiếp tục theo dõi về chất lượng, hiệu quả, an toàn của thuốc trong quá trình lưu hành.
Đảm bảo cho người bệnh dễ dàng tiếp cận với các thuốc Molnupiravir điều trị COVID-19
Đến nay, thuốc đã được Bộ Y tế cấp phép lưu hành có điều kiện trong 3 năm và phải kiểm soát chặt chẽ sau khi cấp phép. Người dân chỉ được sử dụng thuốc điều trị COVID-19 Molnupiravir khi có đơn thuốc của y bác sĩ. Việc tự ý sử dụng tiềm ẩn nhiều nguy cơ do các tác dụng không mong muốn của thuốc cũng như có thể tạo ra những chủng virus mới.
Bộ Y tế cho biết, tại Anh, Mỹ, Nhật và một số nước phê duyệt Molnupiravir sử dụng khẩn cấp, thuốc này chỉ có thể được kê bởi bác sĩ, y tá đã đăng ký thực hành nâng cao, trợ lý bác sĩ đã được cấp bằng và cấp phép kê đơn theo luật.
Tuy nhiên, hiện nay, số lượng bệnh nhân COVID-19 ngày càng tăng cao (chủ yếu là các ca bệnh mức độ nhẹ, trung bình, được điều trị và cách ly tại nhà). Còn việc mua thuốc kháng virus điều trị COVID-19 phải có đơn thuốc do bác sĩ, y sĩ kê dẫn đến tình trạng quá tải cho hệ thống và cán bộ y tế và bệnh nhân không sớm được tiếp cận với thuốc.
Trong khi đó, thuốc này được khuyến cáo sử dụng sớm (trong vòng 5 ngày kể từ khi khởi phát triệu chứng hoặc có kết quả dương tính).
Để đảm bảo việc người bệnh dễ dàng tiếp cận với các thuốc kháng virus điều trị COVID-19 trong bối cảnh số mắc tăng cao những ngày gần đây, đồng thời đảm bảo kiểm soát chặt chẽ theo tinh thần chỉ đạo của Bộ Chính trị, Bộ Y tế đã có báo cáo gửi Thủ tướng Chính phủ, Ban chỉ đạo quốc gia phòng chống dịch COVID-19 đề xuất, kiến nghị Thủ tướng Chính phủ một số nội dung về việc cấp phát thuốc.
Áp dụng đối với thuốc kháng virus điều trị COVID-19 dùng đường uống
Cụ thể, đối với việc cấp phát thuốc điều trị miễn phí, có thể giao các địa phương, cơ sở y tế thực hiện mua sắm thuốc điều trị COVID-19 (trong đó có thuốc Molnupiravir đã được cấp phép lưu hành tại Việt Nam) theo quy định để đáp ứng kịp thời nhu cầu điều trị của đơn vị.
Trường hợp người dân tự mua thuốc, tự chi trả cho cơ sở được bán lẻ thuốc (nhà thuốc, hiệu thuốc) thì người phụ trách chuyên môn về dược tại nhà thuốc, quầy thuốc được phép kê đơn cho bệnh nhân hoặc người mua thuốc kháng virus.
Về quy định kê đơn cho người bệnh mắc COVID-19, Bộ Y tế nêu rõ: Người được kê đơn (tại quầy thuốc, nhà thuốc) cần có xác nhận từ cơ sở y tế (bao gồm cơ sở xét nghiệm, cơ sở khám chữa bệnh, trạm y tế) có dương tính với SARS-CoV-2, kể cả xét nghiệm PCR hoặc xét nghiệm nhanh; hoặc người bệnh tự quay clip quá trình thực hiện test kháng thể tại nhà gửi cho người phụ trách chuyên môn của nhà thuốc, quầy thuốc để chứng minh kết quả test dương tính.
Hướng dẫn cũng đề xuất người phụ trách chuyên môn về dược tại cơ sở bán lẻ thuốc căn cứ vào kết quả xét nghiệm, xác định được ít nhất 1 nguy cơ chuyển nặng của bệnh nhân.
Người mua thuốc hoặc bệnh nhân phải ký một bản cam kết, trong đó có các thông tin về người bệnh, ngày test, kết quả test, việc sử dụng thuốc theo mẫu, kèm bản sao chứng minh thư của người bệnh.
Bộ Y tế cũng xây dựng tờ hướng dẫn sử dụng để người bán thuốc hướng dẫn người mua, trong đó có các thông tin: đối tượng sử dụng, liều dùng, cách dùng, theo dõi sau khi dùng, cách xử trí khi gặp các phản ứng bất thường (không hiệu quả, tác dụng phụ…) cần báo cho cơ sở y tế.
Đồng thời cho biết sẽ áp dụng công nghệ thông tin phối hợp với Hệ thống cảnh giác dược quốc gia để nhà sản xuất, người bệnh, cán bộ y tế báo cáo các thông tin liên quan đến an toàn, hiệu quả của thuốc khi sử dụng và sau khi sử dụng để tiếp tục đánh giá an toàn, hiệu quả của thuốc sau khi được cấp phép lưu hành.
Tuy nhiên, Bộ Y tế cho biết đề xuất này chỉ áp dụng đối với thuốc kháng virus điều trị COVID-19 dùng đường uống và tại các địa bàn có tình hình dịch bệnh tăng cao, hệ thống cơ sở y tế quá tải, không thể thực hiện hiệu quả việc kê đơn thuốc, bán thuốc theo đơn cho người bệnh theo quy định.
Giám đốc Sở Y tế tỉnh/thành phố căn cứ vào tình hình dịch bệnh và hệ thống cơ sở y tế trên địa bàn để quyết định việc áp dụng phương án cho phép người phụ trách chuyên môn về dược tại nhà thuốc, quầy thuốc được phép kê đơn cho bệnh nhân hoặc người mua thuốc kháng virus.
Lý do là vì các thuốc kháng virus điều trị COVID-19 là thuốc mới, cần phải có sự giám sát an toàn hiệu quả khi đưa ra sử dụng rộng rãi, quan trọng nhất là việc chỉ định sử dụng thuốc cho đối tượng nào, liều dùng cần có ý kiến của bác sĩ, y sĩ thông qua việc thăm khám theo quy định.
Việc cho phép người phụ trách chuyên môn về dược tại nhà thuốc, quầy thuốc được phép kê đơn có thể chưa được kiểm soát chặt chẽ và thận trọng dẫn đến tình trạng lạm dụng thuốc, sử dụng thuốc không đúng mục đích gây ra những hậu quả nghiêm trọng đối với sức khỏe cộng đồng.
(Báo Sức khỏe đời sống)
*Phải bỏ ngay suy nghĩ 'ai rồi cũng thành F0'
Những ngày qua trên mạng xã hội, các chia sẻ 'ai rồi cũng F0 cả thôi' đang trở nên phổ biến. Có những người khi dương tính đã có tâm lý trước sau cũng đến lượt, đến sớm xong sớm.
Những ngày qua trên mạng xã hội, các chia sẻ “ai rồi cũng F0 cả thôi” đang trở nên phổ biến. Có những người khi dương tính đã có tâm lý trước sau cũng đến lượt, đến sớm xong sớm.
Theo PGS Trần Đắc Phu, nguyên Cục trưởng Cục Y tế dự phòng (Bộ Y tế) cho rằng, tâm lý ai rồi cũng trở thành F0 rất nguy hiểm. Nếu chúng ta mắc bệnh rồi về lây cho người già, người mắc bệnh nền hay trẻ em, phụ nữ mang thai lại càng nguy hiểm hơn. Đây đều là đối tượng chưa tiêm vắc xin, nguy cơ bệnh nặng, thậm chí tử vong. Do đó, người dân cần loại bỏ tâm lý ai rồi cũng mắc Covid-19.
Về mặt dịch tễ học, nhiều chuyên gia cũng cho rằng, quan điểm của nước ta là sống chung với dịch nhưng không có nghĩa là để dịch tự do lây nhiễm.
Trong mọi điều kiện, cần cố gắng hạn chế dịch lây lan để số ca F0 trong tầm kiểm soát nhằm đảm bảo an toàn cho người dân. Vì các nghiên cứu cũng đã chỉ ra, ngay cả sau khi đã khỏi bệnh, bệnh nhân có nguy cơ phải đối mặt với hàng hoạt triệu chứng và di chứng hậu Covid-19 như ho, sốt, khó thở, mệt mỏi, xơ phổi, tim đập nhanh, rối loạn tiêu hóa, rối loạn vị giác hoặc khứu giác, rối loạn tâm lý, trầm cảm, trí nhớ giảm sút…
Theo Giám đốc Sở Y tế Hà Nội Trần Thị Nhị Hà cho biết, F0 điều trị tại nhà chiếm tỷ lệ chủ yếu với 96%, do vậy việc thông tin, phổ biến kiến thức để người dân tự chăm sóc sức khỏe cho mình và người thân cần đặc biệt chú trọng.
Khi phát hiện dương tính, người dân cần tuân thủ triệt để chỉ dẫn của bác sĩ, nhân viên y tế; sử dụng thuốc theo chỉ định, đặc biệt là các thuốc chống viêm, chống đông máu, kháng sinh, kháng virus...; vệ sinh đường hô hấp đúng cách, vận động, thể dục đúng mức, chế độ ăn uống nghỉ ngơi, bổ sung dinh dưỡng hợp lý.
PGS Trần Đắc Phu:
Việt Nam đang thực hiện giai đoạn bình thường mới, từng bước nởi lỏng các hoạt động. Thay vì "Zero Covid-19", Việt Nam nam chuyển sang giai đoạn thích ứng an toàn, quản lý rủi ro.
Vì vậy, ý thức của người dân rất quan trọng, đóng vai trò rất lớn quyết định hiệu quả của công tác chống dịch.
Nếu mỗi người đều tuân thủ 5K và nhắc nhở nhau thực hiện tốt việc này sẽ giúp cho dịch bệnh bớt nóng hơn, từ đó tránh được sự quá tải cho hệ thống y tế, từng bước đưa cuộc sống trở lại bình thường.
Phát hiện dấu hiệu bất thường, F0 cần thông báo với cơ quan y tế gần nhất để được tư vấn, điều trị và tiếp cận thông tin y tế một cách chính thống.
Người dân cần giữ bình tình vì hầu hết đã tiêm 2-3 mũi vắc xin, triệu chứng khi nhiễm bệnh thường nhẹ, sẽ hết sau khoảng 7-10 ngày điều trị.
Mọi người không nên hoang mang lo sợ, nhưng tránh tâm lý chủ quan, chờ đợi "rồi ai cũng là F0"; thực hiện nghiêm túc 5K, tránh tụ tập, hội họp, giao lưu không cần thiết là biện pháp tốt nhất để bảo vệ sức khỏe bản thân và gia đình.
Nguy cơ trở nặng vẫn hiện hữu, ảnh hưởng sức khỏe hậu Covid-19
Các chuyên gia cho rằng, sau khi mắc Covid-19, ảnh hưởng sức khỏe hậu Covid-19 là điều đáng lưu tâm, khi mà dịch bệnh vẫn đang rất nguy hiểm và biến hóa khôn lường, và hiện vẫn chưa tìm hiểu, nghiên cứu hết việc chúng sẽ ảnh hưởng đến con người như thế nào theo thời gian.
Việc chủ quan trong phòng chống dịch các chuyên gia khuyến cáo đó có thể khiến số ca Covid-19 tăng cao, kéo theo số bệnh nhân nặng tăng, rồi tỷ lệ tử vong nhiều hơn, gây quá tải cho hệ thống y tế.
Theo PGS.TS Nguyễn Huy Nga, nguyên Cục trưởng Cục Y tế dự phòng (Bộ Y tế), quan điểm của nước ta là sống chung với dịch, nhưng sống chung thế nào cho an toàn phải tính toán hợp lý. Nếu buông xuôi, thả lỏng, nghĩ "ai rồi cũng thành F0" thì rất nguy hiểm, kéo theo vô số những hệ lụy, trong đó có quá tải hệ thống y tế, khiến số ca bệnh nặng, tử vong tăng vọt.
Dù số ca bệnh hiện nay tăng nhiều, nhưng người dân vẫn cần tuân thủ 5K. Những ai không thực hiện tốt 5K thì nguy cơ lây nhiễm rất cao. F0 đang có xu hướng nhiều hơn F1 và hầu hết đều không triệu chứng. Ngoài ra, vì số F0 không triệu chứng hiện nay vẫn đang đi làm và ra ngoài bình thường nên đây sẽ là nguồn phát tán virus.
Vì vậy, người dân nếu không may bị nhiễm bệnh cần bình tĩnh, không quá lo lắng. Không riêng gì F0 hay F1, mà tất cả mọi người cần tuân thủ tốt 5K, hạn chế đi lại, tiếp xúc nhiều. Khi thấy dấu hiệu bất thường nào về sức khỏe cần test Covid-19 tại nhà. Nếu dương tính, nên báo cho lực lượng y tế nơi mình cư trú để được tư vấn điều trị.
Còn theo Phó giáo sư Hoàng Thị Phượng - Giảng viên cao cấp, Phó Chủ nhiệm bộ môn Nội (Trường đại học Y dược - Đại học Quốc gia Hà Nội), Nguyên Trưởng Khoa Lao và bệnh phổi (Bệnh viện Phổi Trung ương) cho biết khi vắc xin đã được phủ rộng rãi, đồng nghĩa những triệu chứng nặng đã được kiểm soát, đồng nghĩa tỷ lệ rất cao người bệnh phục hồi hoàn toàn.
Nhiều số liệu trên thế giới chỉ ra rằng chỉ có khoảng 10-20% số trường hợp mắc Covid-19 có biểu hiện các dấu hiệu của hội chứng hậu Covid-19.
Theo tổ chức Y tế thế giới (WHO), có hơn 200 triệu chứng được báo cáo ở bệnh nhân hậu Covid. Các triệu chứng khác bệnh nhân có thể gặp phải, bao gồm: đau ngực, khó giao tiếp, cảm giác lo lắng hoặc trầm cảm, đau cơ, sốt, mất khứu giác, mất vị giác..., trong đó khoảng 10-15% trường hợp tiến triển thành bệnh nặng, và khoảng 5% bệnh trở nên nghiêm trọng. Tình trạng triệu chứng hậu Covid kéo dài có thể gặp ở một số người, thường là sau khi hết bệnh ba tháng, và kéo dài ít nhất hai tháng.
(Báo Giáo dục và Thời đại)
*Đề xuất chưa coi Covid-19 là “bệnh lưu hành”
Theo Bộ Y tế, thời điểm hiện nay, Việt Nam chưa nên coi dịch bệnh Covid-19 là "bệnh lưu hành".
Bộ Y tế đã có văn bản báo cáo Thủ tướng Chính phủ về Công tác triển khai các biện pháp phòng, chống dịch Covid-19.
Về đề xuất coi Covid-19 là "bệnh lưu hành" (có người gọi là "bệnh đặc hữu") mà một số ý kiến đưa ra, Bộ Y tế cho hay cần đáp ứng được bốn tiêu chí: Tồn tại thường xuyên tác nhân gây bệnh; tồn tại quần thể cảm nhiệm và ổ chứa tác nhân gây bệnh; dịch bệnh xảy ra ở một nhóm hoặc quần thể dân số trên địa bàn nhất định; tỷ lệ mắc bệnh ổn định và dự báo được.
Đến nay, Tổ chức Y tế thế giới (WHO) vẫn coi Covid-19 trong tình trạng đại dịch và lo ngại tiếp tục có các biến thể không lường trước được của virus. Nhiều nước vẫn có diễn biến dịch bệnh phức tạp, cần tiếp tục duy trì các hoạt động đáp ứng với đại dịch ở mức cao.
Theo Bộ Y tế, trong nước, tỷ lệ bệnh nặng, tử vong đã giảm nhiều so với giai đoạn trước, nhưng số tử vong ghi nhận hàng ngày vẫn ở mức cao trên dưới 100 ca/ngày.Số người tử vong do Covid-19 hàng ngày cao hơn cả số tử vong cao điểm hàng năm do bệnh dại hoặc sốt xuất huyết, sởi.
Các chuyên gia và quốc gia đang thảo luận, đề xuất coi Covid-19 là "bệnh lưu hành" (endemic). Bộ Y tế đã trao đổi với các chuyên gia trong nước, chuyên gia của WHO, Trung tâm Dự phòng và kiểm soát bệnh tật Mỹ về vấn đề này.
Qua đó, Bộ Y tế cho rằng, Covid-19 tại Việt Nam vẫn đang chuyển tiếp giữa giai đoạn đại dịch sang "bệnh lưu hành".
Tỷ lệ mắc bệnh Covid-19 chưa ổn định và có sự khác biệt rất lớn giữa các địa phương. Số ca tử vong theo ngày vẫn còn rất cao so với những bệnh truyền nhiễm có tỷ lệ tử vong hàng đầu trước đây.
Virus liên tục biến đổi và ghi nhận các biến thể mới như Alpha, Delta, Omicron; trong các biến thể cũng liên tục xuất hiện biến thể phụ có thể né miễn dịch, gây tái nhiễm; do đó tỷ lệ mắc tại các quần thể cảm nhiễm là rất khó xác định và chưa có tính ổn định.
Vì vậy, thời gian này, Việt Nam chưa nên coi dịch bệnh Covid-19 là "bệnh lưu hành". Bộ tiếp tục phối hợp với WHO và các tổ chức quốc tế, quốc gia khác theo dõi tình hình, cập nhật sự biến đổi của virus để tham mưu Thủ tướng quyết định coi Covid-19 là bệnh lưu hành vào thời điểm thích hợp.
Trước đó, một số chuyên gia cũng cho rằng Việt Nam nên thận trọng khi xem Covid-19 là bệnh đặc hữu.
PGS.TS.Trần Đắc Phu, Cố vấn cao cấp Trung tâm Đáp ứng khẩn cấp sự kiện y tế công cộng Việt Nam cho rằng, chúng ta chưa thể chắc chắn rằng, việc kiểm soát đã thật sự ổn định về tỷ lệ mắc mới.
Ông cho rằng, muốn đưa về bệnh đặc hữu là bệnh lưu hành hàng năm thì phải ổn định về số ca mắc, nhưng ca mắc Covid-19 hiện vẫn bùng lên và rất thất thường, khó đoán.
Kỳ vọng về miễn dịch cộng đồng ở trong nước ở thời điểm này cũng không thể đạt vì theo PGS.TS Trần Đắc Phu, miễn dịch cộng đồng gồm miễn dịch mắc phải và miễn dịch do tiêm chủng.
Nếu so sánh với các nước Tây Âu có quan điểm coi Covid-19 như bệnh đặc hữu sẽ thấy, dù Việt Nam tỷ lệ tiêm chủng tốt nhưng vẫn chưa cao bằng họ.
Hơn nữa, các quốc gia này ngoài việc tiêm chủng, họ đã trải qua 3-4 đợt dịch Covid-19 lớn, như vậy tỷ lệ dân số mắc cũng đã rất cao. Trong khi ở Việt Nam tỷ lệ này còn thấp, nghĩa là miễn dịch cộng đồng chưa cao.
Ngoài ra, ở các quốc gia Tây Âu, chủng Omicron đã xuất hiện, bùng phát một thời gian và hiện đang theo chiều hướng đi xuống, còn Việt Nam chưa đạt được điều đó. Số ca mắc mới, theo nhận định, sẽ tiếp tục tăng trong 1-2 tuần nữa.
Còn PGS.TS.Nguyễn Văn Dũng, Trưởng khoa Y tế công cộng, Đại học Y Dược TP.HCM cũng cho rằng coi Covid-19 là bệnh lý thông thường ở thời điểm này sẽ có nhiều hệ quả không tốt.
Thứ nhất, người dân sẽ chủ quan, xem thường; Thứ hai, khi đã rút Covid-19 ra khỏi nhóm A truyền nhiễm, nếu xuất hiện chủng mới thì rất khó áp dụng các biện pháp kiểm soát từ Nhà nước, ví như yêu cầu bắt buộc đeo khẩu trang, không tụ tập đông người nơi công cộng.
Thứ ba, nếu coi Covid-19 là bệnh thông thường thì chi phí điều trị sẽ do người bệnh chi trả.
Trong tình huống này có người chi trả được nhưng một bộ phận đáng kể sẽ gặp khó khăn, nhất là khi lây nhiễm dịch bệnh ngoài mong muốn nhưng phải chi trả khoản chi phí y tế không nhỏ.
Trong báo cáo này, Bộ Y tế đề xuất F1 chỉ tự theo dõi sức khỏe 10 ngày, nếu đáp ứng một trong các điều kiện đã tiêm đủ liều vắc-xin Covid-19, liều cuối cùng ít nhất 14 ngày; từng là F0 khỏi bệnh trong ba tháng. F1 xét nghiệm PCR hoặc test nhanh vào ngày thứ 5, kể từ thời điểm tiếp xúc F0.
Trong thời gian tự theo dõi sức khỏe, F1 tuân thủ 5K, không tiếp xúc với người thuộc nhóm nguy cơ cao (người có bệnh nền; người trên 50 tuổi; phụ nữ có thai). F1 chưa tiêm đủ liều vắc-xin Covid-19, cách ly tại nhà hoặc nơi lưu trú 5 ngày; xét nghiệm một lần.
Đề xuất của Bộ Y tế đã có nhiều điều chỉnh về biện pháp cách ly F1 so với quy định hiện hành. Hồi tháng 2, Bộ Y tế quy định F1 đã tiêm đủ hai mũi vắc-xin hoặc là F0 khỏi bệnh trong ba tháng, phải cách ly 5 ngày. F1 chưa tiêm đủ liều hoặc chưa tiêm vắc-xin Covid-19 phải cách ly 7 ngày; tự theo dõi sức khỏe 3 ngày tiếp theo.
Liên quan tới quy định cách ly người nhập cảnh, theo Bộ Y tế Cần có kết quả xét nghiệm âm tính với SARS-CoV-2 bằng phương pháp RTPCR/RT-LAMP trong vòng 72 giờ hoặc xét nghiệm nhanh kháng nguyên trong vòng 24 giờ (trừ trường hợp trẻ em dưới 2 tuổi) trước khi xuất cảnh về Việt Nam.
Trong vòng 24 giờ đầu (kể từ khi nhập cảnh), người nhập cảnh thực hiện xét nghiệm SARS-CoV-2 (trừ trẻ em dưới 2 tuổi): Trường hợp kết quả xét nghiệm âm tính thì được rời khỏi nơi lưu trú nhưng phải thực hiện nghiêm khuyến cáo 5K và các biện pháp phòng chống dịch khác của địa phương.
Nếu kết quả xét nghiệm dương tính thì phải báo cáo ngay cho cơ quan y tế địa phương để được hướng dẫn xử lý kịp thời theo quy định.
Trẻ dưới 2 tuổi không bắt buộc phải xét nghiệm SARS-CoV-2, chưa được tiêm hoặc chưa từng bị nhiễm SARS-CoV-2 đều được tham gia các hoạt động ở ngoài nơi lưu trú cùng bố, mẹ, người thân.