ĐẶT VẤN ĐỀ
Giáo dục mầm non là bậc học đầu tiên trong hệ thống giáo dục nước ta bao gồm các lớp nhà trẻ, mẫu giáo. Là bậc học cơ bản đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành nhân cách và trí tuệ cho trẻ tạo điều kiện cho trẻ hòa nhập môi trường mới. Việc rèn nề nếp thói quen cho trẻ chính là 1 trong những bước hình thành và phát triển nhân cách cho trẻ ở trường mầm non.
Trẻ 18 - 24 tháng là giai đoạn trẻ mới bắt đầu bi bô tập nói và ở giai đoạn này trẻ cũng mới bắt đầu nhận thức được việc mình làm đúng – sai, tốt – xấu và ở độ tuổi này trẻ mới bắt đầu đi học trường mầm non. Do đó thói quen nề nếp của trẻ ở trường mầm non chưa được hình thành. Chính vì vậy vấn đề rèn nề nếp thói quen cho trẻ ở trường mầm non cho trẻ giai đoạn 18 -24 tháng là việc hết sức quan trọng cần thiết. Việc rèn nề nếp thói quen cho trẻ 18 – 24 tháng sẽ là cái kiềng vững chắc làm nền tảng cho việc hình thành và phát triển nhân cách sau này.
* Mục đích nghiên cứu:
- Thực trạng việc rèn nề nếp, thói quen ban đầu cho trẻ 18 – 24 tháng tuổi
- Một số biện pháp rèn nề nếp, thói quen ban đầu cho trẻ 18 – 24 tháng tuổi
* Đối tượng nghiên cứu:
- Biện pháp rèn nề nếp, thói quen ban đầu cho trẻ nhà trẻ 18 – 24 tháng tuổi
* Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp nghiên cứu lí luận: đọc nghiên cứu tổng hợp các tài liệu có liên quan đến đề tài nghiên cứu.
- Phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
Phương pháp quan sát sư phạm.
Phương pháp dùng lời.
Phương pháp dùng trò chơi.
* Phạm vi nghiên cứu:
- Trẻ nhà trẻ 18 – 24 tháng tuổi
* Kế hoạch nghiên cứu: Từ tháng 8/ 2017 đến tháng 4/ 2018
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. Cơ sở lí luận:
Việc rèn luyện nề nếp thói quen ban đầu cho trẻ nhằm hình thành cho trẻ những cơ sở đầu tiên về giáo dục nhân cách và phát triển toàn diện là nhiệm vụ hết sức khó khăn luôn được đặt lên hàng đầu. Vì thế chúng ta phải biết kết hợp tốt và chặt chẽ giữa nhà trường và gia đình để chăm sóc nuôi dạy các cháu theo kiến thức khoa học. Có thể nói rằng những điều mà trẻ bắt đầu tiếp nhận ở độ tuổi này đều có ảnh hưởng lâu dài đến việc hình thành toàn bộ nhân cách của trẻ sau này.
Chính vì thế vấn đề rèn nề nếp thói quen ban đầu ở trường mầm non cho trẻ giai đoạn 18 – 24 tháng là việc làm hết sức quan trọng cần thiết. Việc rèn nề nếp thói quen cho trẻ 18 – 24 tháng sẽ là cái kiềng vững chắc làm nền tảng cho việc hình thành và phát triển nhân cách của trẻ sau này.
II. Cơ sở thực tiễn:
2. Thuận lợi:
- Lớp được Ban giám hiệu đầu tư trang bị đầy đủ đồ dùng đồ chơi, máy vi tính, đầu đĩa, ti vi.
- Bốn cô giáo phối hợp nhịp nhàng trong việc chăm sóc giáo dục trẻ.
- Bản thân là giáo viên yêu nghề mến trẻ, có trách nhiệm cao trong việc thực hiện nhiệm vụ nhà trường giao cho.
- Trẻ đi học đều, đúng giờ nên lớp luôn đạt tỉ lệ chuyên cần cao.
- Phụ huynh học sinh quan tâm, giúp đỡ và cùng phối kết hợp với giáo viên trong công tác chăm sóc nuôi dưỡng giáo dục trẻ.
3. Khó khăn:
- Đa số trẻ đi học ở 1 lứa tuổi 18- 24 tháng, 1 số trẻ còn ít tháng hầu như trẻ trong lớp chưa hề có nề nếp, thói quen ban đầu về ăn, ngủ, nếp chơi, nếp học bởi trẻ vừa mới đi học vài tháng và nhiều trẻ còn non tháng.
- Đầu năm sĩ số trẻ là 28 đến kì 2 sĩ số tăng lên 37 trẻ, trẻ bé lớp sĩ số đông mỗi tháng đều có trẻ mới đi nên ảnh hưởng rất nhiều đến việc chăm sóc giáo dục rèn nề nếp thói quen cho trẻ.
- Do nhiều trẻ ít tháng nên hầu như nhiều trẻ chưa biết nói ảnh hưởng đến việc nếp chơi, học, trẻ còn bé nên hay ốm ảnh hưởng đến chuyên cần của lớp.
III. Các biện pháp chính:
a. Biện pháp 1: Nghiên cứu tham khảo tự bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn và thực hiện chương trình giáo dục trẻ 18 – 24 tháng có hiệu quả:
Đây là một trong những biện pháp quan trọng nhất trong việc rèn nề nếp thói quen ban đầu cho trẻ. Bởi vì cô dạy có hay, có hấp dẫn thì mới thu hút được trẻ, trẻ mới nhanh ngoan và nhanh đi vào nề nếp. Để thực hiện chương trình giáo dục có hiệu quả thì đòi hỏi giáo viên phải có chuyên môn về độ tuổi thật vững chắc. Thế nhưng năm nay lại là năm đầu tiên tôi dạy ở độ tuổi nhà trẻ 18 – 24 tháng nên trình độ chuyên môn về độ tuổi này vẫn còn bị hạn chế. Vì thế mà tôi cần phải học lại càng phải học nhiều hơn nữa. Tôi mượn nhà trường các tài liệu lien quan đến chương trình giáo dục trẻ 18- 24 tháng về tự nghiên cứu và tự bồi dưỡng kiến thức cho mình. Đi đôi với tự nghiên cứu tài liệu là tôi còn học hỏi các chị em đồng nghiệp có chuyên môn vững vàng về khối nhà trẻ. Trong việc thực hiện biện pháp này chỉ sau vài tuần học đầu tôi đã thấy có hiệu quả rõ rệt. Từ chỗ các cháu không chịu ngồi vào học hoặc ngồi không ngay ngắn nằm ngả nghiêng, có cháu thì học khóc đòi về với mẹ. Chỉ sau vài 3 tuần chịu khó học hỏi áp dụng vào chương trình dạy trẻ tôi thấy các cháu hứng thú học hơn, học ngoan có nếp hơn, các cháu không còn khóc và không còn ngồi ngả nghiêng nữa.
Bên cạnh đó, trẻ độ tuổi 18 – 24 tháng chưa rời khỏi bàn tay ấp ủ yêu thương của bố mẹ. Vì thế các cháu mang đến trường 1 tâm trạng lo lắng ngỡ lưu luyến nhớ gia đình. Thậm chí cháu sợ hãi khóc lóc lâu mới quen. Vì tuổi này trẻ còn rất bé sống nhiều về tình cảm nên rất cần sự âu yếm nhẹ nhàng bên cạnh của cô giáo nhất là những ngày đầu tiên trẻ mới nhập lớp cô phải là sao để trẻ có thể cảm nhận được nguồn hạnh phúc, an toàn, quan tâm được yêu mến có thể coi là 1 thành viên trong cộng đồng mà trẻ đang hòa nhập. Tình cảm của cô đối với trẻ giàu cảm xúc thân thiết yêu thương như quan hệ mẹ con. Biết tôn trọng và đồng cảm với trẻ tạo nên không khí cởi mở quên mình là người lớn để thực sự là người người bạn của trẻ. Khi trẻ có cảm tình, có hứng thú thì cô mới có thể sử dụng nghệ thuật của mình để thu hút lôi cuốn trẻ vào các hoạt động 1 cách dễ dàng.
b. Biện pháp 2: Phân nhóm theo đặc điểm tâm sinh lý của trẻ:
Bên cạnh việc nâng cao trình độ chuyên môn nhanh chóng đưa trẻ vào chương trình chăm sóc giáo dục là vấn đề trọng tâm. Thì vấn đề cô giáo phải nắm rõ đặc điểm tâm sinh lý của lứa tuổi và quan trọng hơn là phải nắm rõ đặc điểm riêng của từng trẻ nhằm lập ra chương trình kế hoạch bồi dưỡng cho trẻ theo sự phân nhóm và sắp xếp chỗ ngồi cho từng cháu 1 cách hợp lý như sau:
+ Trẻ nhút nhát ngồi cạnh trẻ mạnh dạn, nhanh nhẹn
+ Trẻ khá ngồi cạnh trẻ trung bình
+ Trẻ hiếu động cá biệt hay nói chuyện ngồi cạnh trẻ ngoan, trẻ hay khóc ngồi cạnh cô giáo để dễ quan sát và tiện cho việc điều hành trẻ tốt hơn.
Việc phân nhóm này rất có hiệu quả trong việc rèn luyện trẻ tôi lấy ví dụ thực tế đã trải qua, theo sự sắp xếp chỗ ngồi trên khi tôi mời 1 cháu khá trả lời câu hỏi thì cháu học TB ngồi bên cạnh bạn có thể nghe được câu trả lời của bạn và khi được cô mời lên trả lời lại thì cháu sẽ trả lời được và với sự động viên khen thưởng của cô sẽ tạo cho trẻ hứng thú học hơn và trẻ đó sẽ dần dần tiến bộ lên làm cho nề nếp học của trẻ ngày càng ổn định.
Tôi cho những trẻ còn hay khóc ngồi cạnh cô khi học sẽ rất phù hợp trong việc rèn nề nếp cho trẻ. Khi dạy cô cho những trẻ này ngồi cạnh cô cô vừa dạy vừa thể hiện cử chỉ yêu thương chia sẻ cho trẻ chỉ bằng vuốt ve nhẹ nhàng hay 1 cái xoa đầu cũng có thể làm trẻ vơi đi nỗi nhớ ba mẹ cộng với sự sáng tạo của cô trong giờ học sẽ lôi cuốn trẻ học cùng với các bạn để quên đi nỗi nhớ ba mẹ. Điều này sẽ nhanh chóng giúp trẻ ngoan và nhanh ổn định nề nếp học hơn.
Để thực hiện biện pháp này ngoài việc trao đổi với phụ huynh về đặc điểm riêng của trẻ cộng với sự theo dõi trẻ hàng ngày của cô. Và xuất phát từ tình hình thực tế, dựa vào đặc điểm tâm sinh lý của trẻ tôi đã đi sâu nghiên cứu, tìm tòi tham khảo những tài liệu có nội dung hỗ trợ cho biện pháp phân nhóm này
c. Biện pháp 3: Nêu gương tốt thông qua các hoạt động trong ngày:
Trẻ 18 – 24 tháng với đặc điểm tâm sinh lý trẻ phát triển mạnh mà tôi cũng như bất cứ 1 đồng nghiệp nào cũng có thể dựa vào đó để rèn nề nếp cũng như ý thức trẻ đó là trẻ mầm non nói chung và trẻ 18 – 24 tháng nói riêng rất thích được cô giáo khen và rất sợ bị chê và 1 điểm nữa là trẻ bé hay tò mò thích bắt chước. Dựa vào đặc điểm tâm sinh lý này tôi luôn tôn trọng trẻ và hết sức công bằng sử dụng khen chê đúng mực. Việc khen và chê có tác dụng nhanh mạnh đến hành vi vâng lời của trẻ, tuy nhiên không nên khen quá đáng mà chê trách chung chung. Tôi thường khen những gương tốt trước tập thể để trẻ bắt chước.
VD: cô khen những trẻ đi học ngoan, đúng giờ, mặc quần áo đầu tóc gọn gang sạch sẽ, đi học biết chào cô khi đến lớp, không khóc nhè trước lớp. Ngay hôm sau tôi thấy có nhiều trẻ đi học biết chào cô, ăn mặc sạch sẽ vì cháu bắt chước bạn để được cô khen.
Còn khi chê trẻ cô không chê chung chung nhưng cũng cần phải tìm cách chê thật khéo léo. Không chê trước tập thể lớp mà phải gần gũi ân cần nhắc nhở, góp ý riêng với trẻ để trẻ không vì xấu hổ mà có ý nghĩ không muốn đi học.
VD: khi chê 1 cháu nghịch trong giờ học kết thúc giờ học tôi nêu gương khen 1 số trẻ ngoan còn những trẻ chưa ngoan tôi chỉ nhắc nhở phê bình chung chung. Nhưng sau đó giờ học vào hoạt động mọi lúc mọi nơi tôi sẽ gần gũi nhắc nhở cháu trao đổi với cháu bằng những câu hỏi: con thấy hôm nay bạn Nhi học có ngoan không? Ngoan ạ. Còn con ngồi làm gì? Như thế đã ngoan chưa? Chưa ngoan. Từ đó tôi dặn trẻ hôm nay bạn Nhi học rất ngoan được cô khen rồi đấy, hôm sau con hãy học tập bạn để được cô khen con nhé.
Bên cạnh đó, tôi còn thông qua các bài hát, bài thơ, câu chuyện và mọi lúc mọi nơi để khen chê trẻ đúng lúc đúng nơi kịp thời giúp trẻ có thói quen nề nếp học tốt hơn.
d. Biện pháp 4 : Rèn luyện nề nếp thói quen thường xuyên trong mọi hoạt động mọi lúc – mọi nơi :
Hàng ngày các cháu tôi đến lớp với các nội dung hoạt động : giờ ăn, giờ ngủ, vệ sinh, học tập, vui chơi, giờ đón trả trẻ… mọi sinh hoạt đều là hành động để trẻ được rèn luyện. Đối với độ tuổi này để đưa các cháu vào nề nếp thói quen không phải là chuyện dễ và đơn giản. Thực tế các cháu còn rất bé, chưa có ý thức được như các anh chị mẫu giáo, điều này cũng là 1 thử thách cho cô giáo trẻ ở lứa tuổi này. Muốn tạo cho trẻ có được thói quen thường xuyên phải luôn nhẹ nhàng gần gũi tình cảm với trẻ để uốn nắn trẻ hoặc thông qua bài hát, bài thơ, câu chuyện, trò chơi…có nội dung nói về nề nếp thói quen tôi có thể sử dụng để phần nào liên hệ tới bản thân mà ngoan hơn và biết vâng lời cô giáo. Nhờ tạo sự điều kiện giúp đỡ của cô trẻ được uốn nắn kịp thời thường xuyên, liên tục do đó việc rèn luyện nề nếp thói quen của trẻ trong mọi hoạt động mọi lúc mọi nơi mang lại hiệu quả cao hơn các cháu ngoan có nề nếp hơn.
VD : Rèn luyện cho trẻ thói quen biết chào hỏi thông qua các bài hát như : bé ngoan, lời chào buổi sáng, mẹ yêu không nào ; các bài thơ : miệng xinh, cháu chào ông ạ, cô và mẹ...có thể kết hợp cho trẻ xem tranh khi đọc thơ cho trẻ nghe.
Qua bài thơ, bài hát rèn cho trẻ thói quen khi chơi xong biết cất dọn đồ chơi gọn gàng đúng nơi quy định như :
‘Bạn ơi hết giờ rồi
Nhanh tay cất đồ chơi
Nhẹ tay thôi bạn nhé
Cất đồ chơi đi nào’
Qua bài hát, bài thơ, câu chuyện rèn nề nếp thói quen cho trẻ khi đến giờ ăn, giờ ngủ như bài thơ : ‘Giờ ăn’
Đến giờ ăn cơm
Vào bàn bạn nhé
Nào thìa bát đĩa
Xúc cho gọn gàng
Chớ có vội vàng
Cơm rơi cơm vãi.
Ngoài cho trẻ đọc thơ trước giờ ăn tôi còn cho trẻ xem tranh và nêu gương các bé trong tranh để trẻ bắt chước.
Đến giờ đi ngủ tôi cho trẻ đọc bài thơ : ‘Giờ ngủ’
Không nghịch đồ chơi
Không gọi bạn ơi
Không cười khúc khích
Không ai tinh nghich
Giơ chân giơ tay
Phải nằm cho ngay
Mắt thì nhắm lại.
Khi rèn thói quen vệ sinh tôi cho trẻ đọc bài thơ: ‘Rửa tay sạch’
Cô dặn bé
Trước giờ ăn
Khi tay bẩn
Phải rửa ngay
Với xà phòng
Bé ghi lòng, lời cô dặn.
Từ đó thông qua các bài thơ, bài hát trẻ vừa được rèn phát âm đọc thơ, hát nói về rèn thói quen nề nếp trẻ sẽ còn nhớ các nếp vệ sinh đó khi đến giờ ăn, giờ ngủ, giờ vệ sinh.
e. Biện pháp 5: Tăng cường làm tốt công tác tuyên truyền vận động phối kết hợp với phụ huynh học sinh:
Để thực hiện tốt việc rèn luyện nề nếp thói quen ban đầu cho trẻ thì các bậc phụ huynh giữ 1 vai trò quan trọng do vậy tôi đã tuyên truyền với các bậc phụ huynh về sự cần thiết của việc rèn luyện cho trẻ ở lứa tuổi này. Từ đó phụ huynh cùng phối hợp với giáo viên để nắm bắt đặc điểm tình hình của trẻ, tìm ra nguyên nhân để có biện pháp thích hợp kịp thời uốn nắn trẻ. Đồng thời trao đổi với cha mẹ để rèn luyện thêm cho trẻ khi ở nhà giúp việc rèn luyện thói quen nề nếp của trẻ có khoa học và đi đến thống nhất trong việc chăm sóc giáo dục trẻ.
Vận động phụ huynh cùng sưu tầm tranh ảnh, những bài thơ câu chuyện có nội dung phù hợp, đóng góp nguyên vật liệu và cùng làm đồ dùng đồ chơi phục vụ cho việc chăm sóc giáo dục trẻ đạt kết quả tốt.
Tôi trao đổi với phụ huynh thông qua cac hình thưc: qua giờ đón trả trẻ, trong các buổi họp phụ huynh, các thông tin trên bảng tuyên truyền.
IV. Kết quả đạt được:
Qua 1 năm học tôi kiên trì thực hiện 1 số hình thức rèn luyện nề nếp thói quen ban đầu cho trẻ đến nay trẻ đã thực sự yêu mến cô giáo, các bạn và thích được đến lớp đi học, đã có nề nếp tham gia mọi hoạt động, tác phong mạnh dạn tự tin hơn khi mới đến lớp.
Trẻ có hành vi đặc điểm tốt, đi học biết chào hỏi bố mẹ, ông bà, cô giáo, vâng lời ông bà, bố mẹ, yêu quý con vật, cây cối, quan tâm với bạn bè, biết cảm ơn, xin lỗi.
Đặc biệt các cháu về nhà đã biết tự làm phục vụ, tự xúc ăn, tự uống nước, biết đọc thơ hát cho ông bà, bố mẹ nghe.Vì vậy phụ huynh rất vui hài lòng và yên tâm hơn khi gửi con đến lớp. Từ đó phụ huynh quan tâm đến việc học tập của các nhiều hơn, các cháu có thói quen nề nếp tự phục vụ nên tôi thực hiện nhiệm vụ chăm sóc giáo dục trẻ 1 cách dễ dàng.
KẾT THÚC VẤN ĐỀ
1. Kết luận:
Bác Hồ kính yêu đã nói:
“ Hiền dữ đâu phải là định sẵn, phần nhiều do giáo dục mà nên”.
Trẻ sinh ra đâu phải đứa trẻ nào cũng ngoan cũng lễ phép mà ngay từ ban đầu người lớn phải rèn luyện trẻ dạy trẻ để sau này trẻ trở thành người tốt, có ích cho xã hội.
Chính vì vậy ngành học mầm non luôn coi trọng sự nghiệp chăm sóc, giáo dục trẻ là 1 nhiệm vụ hàng đầu vô cùng quan trọng đặt nền tảng cho sự nghiệp giáo dục chung. Việc rèn luyện nề nếp thói quen ban đầu cho trẻ nhằm hình thành cho trẻ những cơ sở đầu tiên về giáo dục nhân cách và phát triển toàn diện là nhiệm vụ hết sức khó khăn luôn được đặt lên hàng đầu.
Vì thế chúng ta phải biết kết hợp tốt và chặt chẽ giữa nhà trường và gia đình để chăm sóc, nuôi dạy trẻ theo kiến thức khoa học, có thể nói rằng những điều mà trẻ bắt đầu tiếp nhận ở độ tuổi này đều có ảnh hưởng lâu dài đến việc hình thành toàn bộ nhân cách của trẻ sau này.Là 1 giáo viên mầm non phải cần nhận thức sâu sắc tầm quan trọng của trách nhiệm với cái tên “ người mẹ thứ hai” của trẻ. Thật sự yêu mến trẻ, nhiệt tình và say mê công việc và có tấm lòng yêu thương trẻ. Xuất phát từ thực tiễn nhằm đáp ứng yêu cầu ngành học mầm non theo định hướng đổi mới hình thức tổ chức với những biện pháp tôi đã thực hiện trên trẻ ở độ tuổi 18- 24 tháng