PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong bối cảnh đại dịch covid-19 hiện nay đã và đang diễn biến vô cùng phức tạp ở nhiều nơi trên toàn thế giới, trong đó có cả nước Việt Nam của chúng ta. Làn sóng dịch bệnh với nguy cơ lây nhiễm cao, gây nên nhiều biến chứng nguy hiểm. Để đảm bảo an toàn sức khỏe cho mọi người đặc biệt là các em nhỏ ở lứa tuổi mầm non ở những vùng xảy ra dịch bệnh có diễn biến phức tạp, nhiều trường mầm non, mẫu giáo trên địa bàn thành phố Hà Nội đã cho trẻ nghỉ học trực tiếp chuyển sang hình thức học tại nhà. Việc giáo dục con trẻ càng trở nên khó khăn hơn rất nhiều. Làm sao để trẻ mầm non học tại nhà mà vẫn có hứng thú, vui vẻ, vẫn tiếp thu tốt những kiến thức cơ bản phù hợp với từng độ tuổi đảm bảo mục tiêu chăm sóc giáo dục trẻ mà nhiệm vụ năm học đã đề ra. Đó chính là yêu cầu cũng như thách thức mọi khó khăn đặt ra với ngành giáo dục mầm non nói chung và với cô giáo đang phụ trách lứa tuổi 24-36 tháng tuổi như tôi nói riêng.
Vì tình hình dịch bệnh từ đầu năm cho đến thời điểm này trẻ vẫn chưa được đến trường, đến lớp học trực tiếp. Chính vì vậy đứng trước tình hình thực tế việc giáo dục cho trẻ không bị gián đoạn “học, học nữa, học mãi” và phát huy tối đa hiệu quả của việc giáo dục, phù hợp theo từng độ tuổi nhất là trẻ 24-36 tháng thì dạy trẻ học qua video chính là một biện pháp tạm thời để khắc phục.
Nhận thức được điều đó bản thân tôi là một giáo viên mầm non đã luôn cố gắng xây dựng môi trường lớp học thân thiện, hạnh phúc và đặc biệt sáng tạo trong việc sưu tầm và thiết kế các bài giảng vi deo cho trẻ học tập. Nội dung video ngắn gọn, dễ hiểu nhất cuốn hút trẻ tương tác tích cực với video bài dạy của cô. Vì vậy ban giám hiệu nhà trường đã có hướng chỉ đạo cho giáo viên chúng tôi tích cực đổi mới phương pháp, hình thức thật phong phú để đưa hình thức dạy học cho trẻ tích cực thông qua video bài dạy của mình tránh việc trẻ nhàm chán thụ động khi trở lại trường học.
Vì vậy tôi đã suy nghĩ, tìm tòi phải làm thế nào, khi mà trẻ không được đến lớp gặp cô và các bạn, được tham gia vào các hoạt động học mà khi trẻ đi học trở lại vẫn được lĩnh hội đầy đủ các kiến thức và kỹ năng mà cô đã đưa ra yêu cầu trước đó. Nhất là với trẻ 24- 36 tháng tuổi, trẻ năm đầu được bước chân vào trường mầm non. Bên cạnh đó bản thân tôi cũng như những giáo viên trong nhà trường đều cảm thấy trăn trở. Với kinh nghiệm thực tế và tâm huyết với nghề do đó tôi quyết định lựa chọn đề tài: “ Một số biện pháp lồng ghép giáo dục dạy trẻ 24-36 tháng tuổi tham gia học qua video trong ngày nghỉ dịch”.
PHẦN I. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. Cơ sở lý luận:
Video bài dạy là một hình thức mà hiện nay trong các trường mầm non đã và đang được áp dụng đưa vào giảng dạy. Do vậy giáo viên rất trăn trở trong việc thiết kế và sưu tầm video các bài giảng để làm sao cho trẻ khi xem không bị nhàm chán nhất là với trẻ nhà trẻ lại càng khó. Vì trẻ độ tuổi này thu hút chủ yếu là đồ dùng trực quan trẻ được trực tiếp hoạt động với đồ vật. Cho nên để trẻ tương tác tốt qua video của cô gửi, rất cần sự kết hợp của phụ huynh học sinh.
2. Thực trạng vấn đề:
Năm học 2021- 2022 tôi được phân công dạy lớp nhà trẻ D1 với số trẻ là 16 cháu. Trong quá trình lựa chọn và thực hiện đề tài này, tôi gặp phải một số thuận lợi và khó khăn sau:
2.1. Thuận lợi:
Được sự quan tâm và chỉ đạo sát sao của Phòng giáo dục, tạo điều kiện cho chúng tôi được học tập chuyên đề phương pháp giáo dục tiên tiến Montessori.
Được sự quan tâm của Ban giám hiệu nhà trường đã thường xuyên kiểm tra, đôn đốc cũng như động viên kịp thời tới giáo viên chúng tôi trong việc hưởng ứng và thực hiện công tác y tế phòng chống dịch Covit- 19.
Trường học được xây dựng khang trang, đầu tư đầy đủ các trang thiết bị phương tiện, đồ dùng phục vụ trong việc thực hiện thiết kế video bài giảng cho trẻ.
Giáo viên có trình độ chuyên môn, nhiệt tình, tích cực, năng động, sáng tạo trong chuyên môn, luôn chủ động cập nhật nắm bắt đổi mới theo chỉ đạo của ngành và nhà trường, tích cực ứng dụng CNTT trong giảng dạy.
Phụ huynh học sinh quan tâm đến trẻ trong việc chuẩn bị phương tiện, đồ dùng học liệu cho trẻ mọi điều kiện tốt nhất để cho trẻ học qua video. Phối kết hợp giữa gia đình và nhà trường được phụ huynh học sinh nhiệt tình ủng hộ.
2.2. Khó khăn:
Nhận thức của một số phụ huynh trong lớp về việc cho trẻ học qua video không được tốt. Bởi họ cho việc trẻ xem qua video là không cần thiết, ảnh hướng đến sức khỏe của trẻ và trẻ còn bé.
Đa số cha mẹ là người lao động hành chính nên nhiều phụ huynh chưa chú ý đến thời gian biểu cho con hàng ngày. Vì vậy dẫn đến tình trạng phụ huynh gửi phản hồi cho cô chưa kịp thời.
Vì trẻ nhà trẻ cho nên sự tương tác trò chuyện cùng cô cũng gặp khó khăn nhất là trong việc tổ chức hình thức học zoom. Đặc biệt nhất là khi trẻ chưa từng được bước chân đến trường bao giờ để quen cô và bạn cùng với đặc thù trẻ bé còn nhút nhát và lạ lẫm nên ít giao lưu.
Nhiều phụ huynh còn mải làm chưa quan tâm và hiểu được đặc điểm tâm sinh lý của trẻ nên chưa quan tâm, lắng nghe những chia sẻ của trẻ. Bên cạnh đó, cũng ít phối hợp với các cô trong công tác giáo dục con cũng như cập nhật tình hình lớp học thông qua zalo nhóm lớp.
3. Các biện pháp thực hiện:
3.1. Biện pháp 1: Khảo sát trẻ đầu năm.
Ngay từ đầu năm học sau khi nghiên cứu về việc cho trẻ tham gia học qua video tôi đã tiến hành khảo sát trẻ lớp tôi. Đây là bước đầu tiên nhằm xác định sự tự tin, hứng thú, mức độ tập trung, chú ý của trẻ khi học qua video.
Bảng kết quả khảo sát trẻ đầu năm học. Số trẻ được khảo sát: 15 trẻ
| Nội dung | Kết quả |
| Đạt | Chưa đạt |
| Số trẻ | Tỉ lệ % | Số trẻ | Tỉ lệ % |
| Trẻ hứng thú và tương tác với video bài học cô gửi qua zalo nhóm lớp. | 4 | 27 | 11 | 73 |
| Trẻ ghi nhớ được kiến thức sau bài học cô gửi | 3 | 20 | 12 | 80 |
| Phụ huynh tương tác với giáo viên và nhà trường nhằm tăng hiệu quả giáo dục trẻ | 5 | 33 | 10 | 67 |
Sau khi khảo sát tôi nhận thấy có một số trẻ rất tự tin, tích cực hứng thú tham gia các hoạt động, thể hiện cảm xúc của mình nhưng bên cạnh đó cũng có một số trẻ lại rất nhút nhát, rụt rè, ít nói, chưa tích cực tham gia các hoạt động. Đặc biệt là những trẻ chậm nói, nhận thức kém hơn không biết thể hiện cảm xúc của mình bằng lời nói, hành động. Từ đây tôi bắt đầu xác định được những hình thức, nội dung để xây dựng những video có chất lượng kích thích trẻ hứng thứ, tích cực, tự tin tham gia học.
3.2. Biện pháp 2: Tìm hiểu đặc điểm tâm sinh lý trẻ 24- 36 tháng tuổi.
a. Phát triển các mối quan hệ xã hội và tình cảm.
Trẻ giai đoạn 24- 36 tháng là thời điểm trẻ tìm hiểu về các mối quan hệ và có thể tưởng tượng về cảm xúc của người khác (khả năng đồng cảm). Trẻ bắt đầu nhận biết những điều mình muốn cho nên thường xuyên nói “Không” trong giai đoạn này trẻ hay giận dỗi, có thể chơi với những trẻ khác trong thời gian ngắn, nhưng chưa có khả năng chia sẻ. Trẻ thường không thể hiểu lí do của người khác hay kiểm soát cơn giận của mình. Chính vì thế những hành động cũng như cử chỉ của người lớn phải chuẩn mực. (Hình ảnh 1)
b. Phát triển khả năng hiểu biết.
Ở độ tuổi này trẻ có khả năng nhận thức và học hỏi rất cao, chính vì vậy mọi điều trẻ học được từ người lớn trong thời gian này chính là hiểu biết ban đầu của trẻ về thế giới. Đồng thời tránh giận dữ và các hành động không đúng trước mặt trẻ. Các đặc điểm nổi bật khác: trẻ vẫn nghĩ rằng bạn đọc được suy nghĩ của mình. Trẻ gặp khó khăn trong việc phân biệt giữa thực tế và tưởng tượng- những giấc mơ- phim ảnh.
Ví dụ: Trẻ rất thích đồ chơi, trẻ thường vẽ nguệch ngoạc với dấu chấm hoặc vòng tròn, nhưng chưa hình thành một bức tranh cụ thể. ( Hình ảnh 2)
c. Phát triển kỹ năng xã hội.
Khoảng 2-3 tuổi, trẻ bắt đầu biểu hiện tình bạn, sự đồng cảm của mình dành cho bạn cùng chơi hay thậm chí là búp bê và tính san sẻ với mọi người xung quanh. trẻ sẽ gặp đôi chút rắc rối vì chưa hiểu rõ cảm xúc của chính mình. ( Hình ảnh 3)
d. Sự phát triển ngôn ngữ của trẻ giai đoạn 2 đến 3 tuổi.
Giai đoạn 2- 3 tuổi trẻ có thể hiểu được tất cả những gì người lớn nói, do đó vốn từ vựng của trẻ được tăng nhanh, trẻ có thể kết hợp các từ thành một câu đầy đủ như: “Con muốn đi chơi”, biết dùng danh từ chỉ người như: ông, bà, bố, mẹ…Ở giai đoạn này trẻ có thể đọc thơ, hát được bài hát yêu thích, biết phân biệt được các màu sắc cơ bản, nói được các cụm từ, nói được những câu dài hơn. Sau 2 tuổi là thời kỳ phát triển ngôn ngữ rõ ràng, mạch lạc ở trẻ.
Trong giai đoạn này, trẻ có thể nói những câu dài khoảng 2- 3 chữ như “Uống nước cam” hay “Ăn bánh”. Trẻ phát triển nhanh còn có thể nói câu từ 4- 5 chữ. “Bố ở đâu mẹ?” hay “Đồ chơi đâu rồi?..Trẻ còn bắt đầu biết sử dụng các đại từ xưng hô (con, cô, cậu, bố, mẹ…). Bố mẹ nên chú ý đến cách mà trẻ sử dụng để mô tả ý tưởng, thông tin yêu cầu, mong muốn của mình với bố mẹ. Vì vậy người lớn đặc biệt là giáo viên trực tiếp dạy, chăm sóc trẻ hiểu được đặc điểm tâm sinh lý của trẻ, dạy trẻ những bài học bổ ích để trẻ phát triển đầy đủ cả về thể lực cũng như trí tuệ. Đặc biệt do đại dịch covid 19 vẫn diễn biến phức tạp, trẻ vẫn chưa được đến trường thì vai trò của người giáo viên càng cao. Giáo viên xây dựng nội dung bài học phù hợp dạy trẻ, đảm bảo trẻ ở nhà vẫn lĩnh hội các kiến thức như trẻ đang học tại lớp.
3.3. Biện pháp 3: Thiết kế bài giảng và sưu tầm các video trên YouTube.
Ngày nay, có rất nhiều phương pháp học online tại nhà hiệu quả mà giáo viên có thể cung cấp cho phụ huynh để áp dụng dạy học cho trẻ. Xây dựng thiết kế bài giảng và sưu tầm trên YouTbe sinh động, hấp dẫn tạo hứng thú, tích cực cho trẻ tham gia học qua video không chỉ giúp trẻ tập trung học tập mà còn có thể tiếp thu các bài học nhanh hơn. ( Hình ảnh 4)
a. Bài học dễ hiểu tạo sự thú vị cho trẻ.
Các bài giảng vi deo được học tại nhà cho trẻ 24-36 tháng được chia thành các phần để trẻ học hiệu quả hơn. Vì học sinh mầm non không đủ kiên nhẫn để ngồi học trước máy tính quá lâu, do đó nếu học quá lâu thì việc tiếp thu kiến thức cho trẻ sẽ không hiệu quả.
Ví dụ: Khi dạy trẻ kỹ năng xúc miệng bằng nước muối: Cô đã sưu tầm bài giảng trên YouTbe và hưỡng dẫn trẻ. Ngậm một ngụm nước vừa phải, súc trong miệng 1- 2 phút, sau đó ngửa cổ để súc sạch cổ họng. Giáo viên lựa chọn câu từ ngắn gọn, dễ hiểu và hình ảnh video sắc nét để trẻ vừa nghe cô nói, vừa nhìn video để có thể ghi nhớ và nếu như có sự giúp đỡ của bố mẹ, trẻ có thể thực hiện luôn để khắc sâu bài học của cô giáo dạy. ( Hình ảnh 5)
b. Bài học của trẻ phù hợp với lứa tuổi, với sự phát triển của từng trẻ.
Việc học trực tuyến đối với học sinh mầm non sẽ gặp nhiều khó khăn hơn so với các bậc học khác không chỉ về khả năng tập trung mà còn về khả năng tiếp thu và tư duy của từng trẻ. Giáo viên xây dựng kế hoạch bài dạy phù hợp với sự phát triển của trẻ, thông qua việc tìm hiểu và nắm bắt được khả năng kiến thức, kỹ năng trẻ ở mức độ nào. Giáo viên thiết kế bài giảng phù hợp với trình độ của từng trẻ.
Để tạo sự hứng thú cho trẻ khi học qua vi deo tại nhà, giáo viên có thể chọn nhiều ứng dụng học khác nhau như Zoom, Google... cùng những bài giảng được sưu tầm thiết kế thú vị, nhiều màu sắc để giúp trẻ tập trung và hứng hơn khi học. Giáo viên sử dụng nhiều hình ảnh, video trực quan sinh động giúp bài giảng trở nên dễ tiếp cận cho học sinh. Giáo viên có thể lồng ghép nội dung bài học vào các trò chơi, hoặc các hoạt động trực tuyến đơn giản, vui nhộn tạo sự hứng thú cho trẻ.
Ví dụ: Khi dạy trẻ NBTN “ Quả Xoài” cô có thể sử dụng hình ảnh, video trực quan sinh động kết hợp trò chơi để trẻ hứng thú, tích cực học tập trẻ khắc sâu ghi nhớ hình ảnh quả xoài, đồng thời ngôn ngữ của trẻ phát triển tốt. ( Hình ảnh 6)
c. Bài học của trẻ mang tính thẩm mỹ, đẹp.
Dạy trẻ học qua video là một trong những giải pháp cần thiết cho trẻ trong mùa dịch. Nhưng làm thế nào để mang đến cho trẻ những bài học bổ ích? Đó là nhiệm vụ quan trọng của người giáo viên. Trẻ 24- 36 tháng, trẻ đã bắt đầu biết cảm nhận cái đẹp với thế giới xung quanh, thông qua các hoạt động như: vẽ, dán, nặn, âm nhạc…Giáo viên phải gần gũi, kịp thời uốn nắn trẻ và lồng hoạt động thẩm mỹ vào tất cả môn học. Hình ảnh video phải đẹp, hấp dẫn, nội dung video phải sinh động thu hút sự chú ý, tập trung của trẻ.
d. Bài học của trẻ phải đa dạng, tích hợp được nhiều nội dung.
Với hình thức tiếp cận giáo dục dựa vào chủ đề, giáo viên sẽ cung cấp sự định
hướng, linh hoạt, tổ chức lồng ghép các hoạt động bằng nhiều hình thức khác nhau
để tăng sự hứng thú tìm hiểu của trẻ.
Các hoạt động như: Chơi các trò chơi, phát triển vận động, âm nhạc, tạo hình, kể chuyện, đọc thơ, nhận biết tập nói, nhận biết phân biệt…Với mô hình học tập này, giáo viên có thể điều chỉnh hoạt động giáo dục đã lên kế hoạch để đưa vào tình huống mới xảy ra trong cuộc sống hằng ngày mà trẻ hứng thú quan tâm.
Học tại nhà và đạt hiệu quả, thì video bài giảng phải đa dạng, tích hợp nhiều nội dung. Mỗi ngày học, tuần học giáo viên phải sưu tầm các video bài học khác nhau tùy thuộc vào nội dung chủ đề. Kết hợp với việc nắm được công nghệ thông tin qua việc xây dựng video hấp dẫn, sinh động kích thích tính tò mò ham hiểu biết của trẻ.
Ví dụ: Trong video bài dạy: “Nhân biết phân biệt màu Xanh- Đỏ - Vàng” cho trẻ nhà trẻ. Nhằm mục đích tránh để trẻ nhàm chán khi xem . Tôi đã lồng ghép tích hợp thêm một số lĩnh vực như Âm nhạc tôi cho vào mở đầu video yêu cầu trẻ hát bài hát “Màu hoa” sau đó tôi lựa chọn hình ảnh búp bê là đồ dùng rất quen thuộc gần gũi với trẻ có màu sắc rõ nét về bộ váy màu Xanh- Đỏ- Vàng để cho trẻ dễ nhận biết phân biệt. Để củng cố cho nội dung tôi yêu cầu trẻ tham gia tương tác bằng trò chơi cắm hoa tương ứng với lọ theo màu sắc , tô màu đỏ cho quả cà chua thông qua kĩ năng tạo hình…
Qua đó giúp trẻ lĩnh hội được những kiến thức và sự hứng thú qua các bài giảng video mà cô đã sưu tầm và thiết kế. ( Hình ảnh 7)
3.4. Biện pháp 4: Nội dung phương pháp dạy học phù hợp với trẻ 24-36 tháng tuổi.
Khác với lớp học truyền thống, lớp học hạnh phúc không áp đặt phát triển theo khuôn mẫu mà đóng vai trò định hướng để trẻ được làm những gì mình yêu thích. Trẻ không học theo kiểu nhồi nhét mà được học những gì có ý nghĩa, được khơi gợi niềm yêu thích để trẻ tiếp tục tự tìm hiểu, khám phá.
Ví dụ: Khi cho trẻ thực hiện kĩ năng rửa tay đúng cách trong đoạn video mà giáo viên xây dựng gửi cho trẻ gồm các bước như sau: Cô sẽ đặt tình huống trong video bằng việc cho trẻ chơi trò chơi với đôi tay. Cô hỏi trẻ “ để đôi tay sạch sẽ thì các con sẽ làm gì? Sau đó cô hướng dẫn trẻ kĩ năng rửa tay theo 6 bước và thực hiện lại thao tác 2- 3 lần trên video, yêu cầu trẻ thực hành luôn có sự hỗ trợ của phụ huynh. Bằng phương pháp như vậy trong những giờ học sau, mỗi tuần giáo viên xây dựng thêm một video lồng ghép thực hành cho trẻ như: “kĩ năng đi giầy dép, kĩ năng cài khuy, kĩ năng chải tóc...” cho trẻ có cơ hội để trải nghiệm.
Giáo viên tìm tòi và tiếp cận, áp dụng các phương pháp giáo dục đổi mới theo hướng tích hợp lấy trẻ làm trung tâm, khắc phục phương pháp dạy gò bó áp đặt, không chú ý đến giáo dục cá thể. Tôi đã mạnh dạn áp dụng và lồng ghép các yếu tố Montestor…vào các hoạt động giáo dục, để tạo cơ hội giúp trẻ phát triển khả năng tư duy, sự sáng tạo, kỹ năng hợp tác theo nhóm, kĩ năng giao tiếp, ngôn ngữ…để từng giờ học được biến hóa thành bài học thú vị qua những trò chơi, trải nghiệm.
3.5. Biện pháp 5: Xây dựng những nội dung Montessori qua video cho trẻ nhà trẻ.
Ban giám hiệu nhà trường tổ chức cho giáo viên tham gia tập huấn Monteessori. Phần nào qua buổi tập huấn về Mon tôi đã hiểu và nắm được thao tác cũng như quy trình trong Mon một cách chuyên sâu hơn. Từ đó tôi đã xây dựng và lựa chon những đề tài phù hợp, áp dụng cho lứa tuổi và điển hình đó là trẻ lớp tôi.
Trong mỗi nội dung hoạt động, tôi luôn tìm tòi, lựa chon nội dung để làm sao phải tạo cơ hội cho trẻ được trải nghiệm, được tương tác, được giao lưu với bạn, với cô. Đặc biệt là các hoạt động phải linh hoạt, phù hợp với đặc điểm, để đa số trẻ có thể tham gia và thực hiện. Qua đó sẽ giúp trẻ tự tin, hào hứng tham gia mọi hoạt động với cô và các bạn.
Ví dụ: Bài ghép mảng hình tạo thành bức tranh.
- Mục đích: Trẻ biết lấy từng mảng tranh để ghép tạo thành các bức tranh hoàn chỉnh.
- Chuẩn bị: Các tranh chia làm nhiều mảnh (Cắt 2, cắt 3, cắt 4.
- Tiến hành: Cô cho trẻ trải thảm, xếp các mảnh ghép của các bức tranh ra thảm. Quan sát các mảnh ghép của từng bức tranh và ghép lại để tạo thành bức tranh hoàn chỉnh. Tương tự các bức tranh còn lại trẻ cũng quan sát kỹ các mảnh ghép và ghép lại tạo thành bức tranh cho hoàn chỉnh, trẻ ghép xong biết gọi tên các bức tranhmà trẻ vừa ghép. ( Hình ảnh 8)
3.6. Biện pháp 6: Phối kết hợp với các bậc phụ huynh cùng dạy trẻ.
Muốn đạt được hiệu quả cao trong bài học cho trẻ, không chỉ gửi video thông qua zalo nhóm lớp là xong, mà còn cần phối hợp với phụ huynh để đạt hiệu quả tối ưu nhất. Nhiều phụ huynh lơ là trong việc cô gửi video bài học trong ngày mà không hề quan tâm. Phụ huynh không coi trọng tới việc cô giáo gửi video là cần thiết, còn thờ ơ không hề phản hồi lại bằng việc mở video cho trẻ xem. Phụ huynh cho rằng với trẻ nhỏ thì việc để trẻ xem và học qua video là không tốt và thậm chí còn ảnh hưởng tới mắt...
Song bên cạnh đó có những phụ huynh hiểu được và sẵn sàng cập nhật liên tục hàng ngày khi có thời gian rảnh sẽ giành chút thời gian ngắn để tương tác cùng con qua video cô gửi. Như chúng ta biết: “đồng hành” là một hành động rất cần thiết cho mỗi đứa trẻ, nhất là tại thời điểm này khi việc trẻ còn bé phải ở nhà không được đến lớp thì cha mẹ chính là người chủ động đồng hành cùng con trong việc lĩnh hội tri thức cha, mẹ, thầy, cô, để đưa các con vào bến bờ tri thức. Một đứa trẻ nếu được bố mẹ quan tâm, yêu thương, chia sẻ...thì sau này sẽ đến lớp với một tâm trạng vui tươi, ngược lại những trẻ còn thiếu sự quan tâm từ người thân, trẻ cảm thấy buồn từ đó sẽ ảnh hưởng tới sự phát triển của trẻ. (Hình ảnh 9)
Giáo viên cần có biện pháp tuyên truyền, kết hợp với phụ huynh để trẻ được tương tác trong từng nội dung các video. Tạo môi trường cho trẻ được trải nghiệm, được học tập và các thói quen trong sinh hoạt hàng ngày, tình yêu thương con cái không phải là che chở, bao bọc, gìn giữ mà yêu thương con chính là việc cho trẻ được làm, được thao tác với đồ dùng, đồ chơi, vật dụng xung quanh trẻ.
Giáo viên xây dựng nhóm zalo lớp, tuyên truyền các nội dung thông qua bài hoc, tình hình sức khỏe của trẻ... mà còn đưa vào các thông tin cha mẹ cần biết để phụ huynh nắm được. Từ đó, phụ huynh của trẻ ở trong nhóm lớp cũng mạnh dạn chia sẻ về các thông tin liên quan tới trẻ và cùng nhau học hỏi kinh nghiệm. Đó chính là những điều cha mẹ cũng như giáo viên cùng thực hiện dạy trẻ mọi lúc mọi nơi. Khi mà dịch bệnh các con phải nghỉ học điều mà mang lại cho tôi chính là hàng ngày được nhận video gửi phản hồi của các con mà phụ huynh gửi đến.
Bản thân tôi cũng cảm thấy rất vui vì đã nhận lại được rất nhiều sự ủng hộ và đóng góp từ phụ huynh. Tuy rằng, cô và trẻ chưa được gặp trực tiếp nhưng nhờ có những lần tương tác qua video và sự đồng hành của cha mẹ trẻ đã thắt chặt sợi dây tình cảm giữa phụ huynh và giáo viên.
Giáo viên lựa chọn nhiều nội dung bài dạy phong phú để gửi lên nhóm lớp động viên, khen ngợi của giáo viên tới trẻ đã tương tác tốt trong một tuần học. Ở nhà cũng như ở lớp tôi sẽ gửi tin nhắn video, hình ảnh cha mẹ và con công khai, khen ngợi trẻ đã có sự tương tác tốt với video bài học cô gửi, để từ đó kích thích trẻ học qua video của cô. Sự phối hợp, chia sẻ cùng phụ huynh việc học qua video sẽ chở nên dễ dàng thuận tiện cho việc giáo dục trẻ.
3.7. Biện pháp 7: Tuyên truyền mọi hình thức.
Đất nước phát triển là một đất nước luôn trên đà công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Chính công nghệ thông tin là một trong những lĩnh vực không thể thiếu trong cuộc sống hàng ngày. Biết được điều đó bản thân tôi cũng như các chi em đồng nghiệp khi thực hiện xong một sản phẩm bài dạy của mình mới chỉ là một công đoạn. Và sau công đoạn đó là phải làm sao truyền tải được tới đối tượng xem nhất là trẻ một cách hiệu quả. Cho nên sau khi thực hiện xong một video chúng tôi đã đưa video đó thông qua mọi phương tiện như Zalo, facebook...cho mọi người mở xem và tương tác một cách dễ dàng ở mọi lúc, mọi nơi và trong mọi hoàn cảnh có thể. Đây chính là phương tiện cầu nối thuận tiện và dễ dàng nhất tới trẻ. Giáo viên thiết kế và sưu tầm các bài giảng video gửi cho phụ huynh thông qua đường Link, Zalo của nhóm lớp gửi cho trẻ và phụ huynh xem. Việc trẻ ngồi chơi công viên, hay đi đến nơi công cộng...phụ huynh cũng chỉ cần một vài thao tác đơn giản có thể cho con xem video bài học cô gửi ( Hình ảnh 10)
4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm:
Qua gần một năm nghiên cứu đề tài, với lòng nhiệt tình tâm huyết với trẻ, cùng sự phấn đấu vươn lên tự học tập tự bồi dưỡng, học tập kinh nghiệm từ các bạn đồng nghiệp, tôi đã sưu tầm chọn lọc và thiết kế ra một số bài vi deo để đưa vào dạy trẻ: Trẻ thích tham gia học tập qua những bài giảng video cô gửi, thông qua việc khảo sát của các bậc phụ huynh phản hồi trên zalo nhóm lớp thì cuối năm tôi đã thu được kết quả sau:
4.1. Về phía giáo viên.
Đã nâng cao được trình độ chuyên môn và kỹ năng công nghệ thông tin, tạo được nhiều bài học hay, sáng tạo cho học sinh trong thời gian nghỉ dịch, giúp trẻ học tốt các môn học qua các bài giảng vi deo để trẻ học tại nhà.
Ngoài ra tôi còn thấy rằng kỹ năng về công nghệ thông tin của giáo viên được tăng lên, giáo viên tự tin, sáng tạo và linh hoạt hơn rất nhiều khi sưu tầm tầm và thiết kế các bài giảng vi deo.
Phối hợp tốt với phụ huynh, tương tác 2 chiều để có thể nắm bắt tình hình học tập của học sinh, cùng cha mẹ học sinh để dạy trẻ.
4.2. Về phía trẻ.
Trẻ thích tham gia học tập qua những bài giảng video cô gửi. Trẻ mạnh dạn, hứng thú, tập trung hơn khi ngồi học. Kết quả học tập của trẻ rất tích và có nhiều chuyển biến. Trẻ tự tin và hứng thú trong các hoạt động học tập qua các bài giảng vi deo, kết quả học tập được nâng lên rõ rệt.
Trẻ học ngoan, có ý thức, hăng hái tham gia vào các bài giảng vi deo mà mà giáo viên giao cho. Trẻ khỏe mạnh, nhanh nhẹn, vui tươi, biết giao lưu với các bạn và cô giáo trong các hoạt động. Những kết quả trên được thể hiện cụ thể ở bảng khảo sát sau:
Bảng kết quả khảo sát trẻ cuối năm. Số trẻ được khảo sát: 14 trẻ
| Nội dung | Kết quả |
| Đạt | Chưa đạt |
| Số trẻ | Tỉ lệ % | Số trẻ | Tỉ lệ % |
| Trẻ hứng thú và tương tác với video bài học cô gửi qua zalo nhóm lớp. | 12 | 60 | | 40 |
| Trẻ ghi nhớ được kiến thức sau bài học cô gửi | 12 | 60 | 8 | 40 |
| Phụ huynh tương tác với giáo viên và nhà trường nhằm tăng hiệu quả giáo dục trẻ | 9 | 45 | 11 | 55 |
4.3. Về phía phụ huynh.
Các bậc phụ huynh đã có thói quen liên kết phối hợp chặt chẽ với cô giáo trong việc dạy trẻ học qua video tại nhà và đã trao đổi với giáo viên bằng nhiều hình thức thông qua gọi điện, zalo trên nhóm lớp.
PHẦN III: KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
1. Kết luận:
Đối với trẻ được đến trường học tập, vui chơi cùng bạn bè là niềm vui lớn, là hạnh phúc của tuổi thơ. Dạy học trẻ qua video là gặp nhiều khó khăn nhất là khi sự đầu tư cho Giáo dục ở một số nơi còn hạn chế. Song, với tinh thần trách nhiệm, tấm lòng của người giáo viên. Cho dù trong thời gian dịch bệnh diễn biến phức tạp học qua video, học ở nhà nhưng trẻ vẫn lĩnh hội kiến thức như ở trường. Giúp trẻ tự tin, nhanh nhẹn, hứng thú, lĩnh hội những kiến thức quý báu qua bài học của cô giáo.
2. Bài học Kinh nghiệm:
Giáo viên luôn gần gũi, hòa nhã, thường xuyên động viên, khuyến khích và kịp thời sửa sai cho trẻ.
Không ngừng học hỏi, tích luỹ kinh nghiệm, rèn luyện bản thân để công tác giáo dục đạt hiệu quả cao hơn.
Cô giáo là một người bạn luôn luôn lắng nghe, thấu hiểu và biết sẻ chia cùng trẻ.
Phối hợp tốt với phụ huynh, để có sự giáo dục đồng bộ tốt nhất cho trẻ, tạo mối quan hệ gắn bó thân thiết giữa phụ huynh và nhà trường, lớp học.
Việc xây dựng và sưu tầm các bài giảng vi deo vào trong giảng dạy là rất cần thiết, bổ ích, sẽ giúp giáo viên rất nhiều trong việc giảng dạy đem lại hiệu quả cao trong việc tiếp thu kiến thức của học sinh và giảm bớt thời gian của chúng ta trong việc làm đồ dùng ngoài ra những tư liệu ấy còn được sử dụng lâu dài và nhân rộng.
3. Kiến nghị, đề xuất:
Trên đây là một số kinh nghiệm tôi đã áp dụng thành công khi giáo dục trẻ trong mùa dịch. Những kinh nghiệm này rất dễ thực hiện và đạt hiệu quả cao. Bên cạnh việc đạt được mục tiêu giáo dục đề ra tôi còn tích lũy thêm được nhiều kỹ năng mới, nhận được nhiều niềm vui và tình cảm yêu quý tin tưởng từ phía phụ huynh, học sinh, chị em đồng nghiệp.
Trên đây là đề tài “ Một số biện pháp lồng ghép giáo dục dạy trẻ 24-36 tháng tuổi tham gia học qua video trong ngày nghỉ dịch” của tôi. Kính mong được sự chia sẻ, đóng góp ý kiến của các cấp lãnh đạo Phòng Giáo dục và Đào tạo quận, các bạn đồng nghiệp để tôi có thêm nhiều vốn kinh nghiệm hơn nữa trong công tác giảng dạy cho trẻ trong trường mầm non nói chung và trẻ 24-36 tháng tuoir nói riệng.
Tôi xin trân thành cảm ơn!